Nhưng những thay đổi theo thời gian đối với làn da của bạn không phải lúc nào cũng thuận lợi. May mắn thay, các bất thường về cấu trúc như nếp nhăn, sẹo mụn, tàn nhang, nám và cellulite đều có thể được xử lý bằng cá phương pháp trẻ hóa da ( Skin Rejuvenation ).
Vậy trẻ hóa da là gì ? vì sao nhu cầu trẻ hóa da của khách hàng lại cao như vậy và có bao nhiêu công nghệ để trẻ hóa da sẽ được giải thích trong nội dung bài viết này.
Mục lục
Giải phẫu da
Da bao gồm toàn bộ bề mặt bên ngoài của cơ thể con người và nó là cơ quan chính của sự tương tác với môi trường xung quanh. Nó đóng vai trò như một hàng rào bảo vệ ngăn không cho các mô bên trong tiếp xúc với chấn thương, bức xạ tia cực tím (UV), nhiệt độ, chất độc và vi khuẩn.
Các chức năng quan trọng khác bao gồm xúc giác, miễn dịch, điều chỉnh nhiệt và kiểm soát nước. Da được cấu tạo bởi các lớp sau: thượng bì, biểu bì và hạ bì.
Thượng bì là lớp ngoài cùng của da và có độ dày trung bình là 100 μm. Nó được hình thành bởi một lớp sừng (phần lớn được là các tế bào chết) và bốn lớp bên dưới: Stratum basale (lớp đáy), Stratum spinosum (lớp gai), Stratum granulosum (lớp hạt), stratum lucisum (lớp sáng).
Lớp thứ hai của da là lớp biểu bì (hay còn gọi là trung bì), được kết nối chặt chẽ với lớp thượng bì thông qua một tấm sợi mỏng cấu tạo nên màng đáy.
Lớp biểu bì chứa các yếu tố cấu trúc của da, mô liên kết và có thể dày từ 1 đến 4 mm. Được chia làm hai khu vực chính có thể được xác định: một khu vực bề mặt tiếp giáp với lớp thượng bì, được gọi là trung bì nhú và một khu vực sâu được gọi là trung bì lưới.
Lớp trung bì nhú được đặc trưng bởi một mạng lưới sợi collagen mỏng (đường kính 0,3-3 μm) và sợi elastin đàn hồi (đường kính 10-12 μm), trong mô liên kết một vi tuần hoàn rất phát triển bao gồm các tiểu động mạch, mao mạch và tiểu tĩnh mạch.
Lớp trung bì lưới được cấu tạo chủ yếu bởi các bó sợi collagen dày (đường kính 10-40 μm) sắp xếp song song với bề mặt da, các sợi đàn hồi và nguyên bào sợi được bao quanh bởi một hỗn hợp vô định hình gồm nước, chất điện giải, protein huyết tương và polysaccharid.
Nhờ độ kéo lớn của nó, collagen chịu trách nhiệm về sức căng của da. Các đặc tính khác của da, chẳng hạn như độ đàn hồi được cung cấp bởi các sợi glycosaminoglycans và elastin.
Lớp da sâu nhất là lớp hạ bì (hay còn gọi là “lớp dưới da), có thể dày từ 1 đến 6 mm tùy thuộc vào vị trí trên cơ thể. Lớp dưới da, bao gồm một mạng lưới các tế bào collagen, elastin và chất béo, giúp duy trì nhiệt lượng của cơ thể và bảo vệ cơ thể khỏi bị thương bằng cách hoạt động như một “bộ giảm xóc”.
Lão hóa da và hình thành nếp nhăn
Tác động nghiêm trọng hơn của lão hóa da được nhìn thấy ở lớp biểu bì, nơi được cho là chịu trách nhiệm chính cho các đặc tính cơ học của da.
Ở da trẻ, collagen dạng sợi có tổ chức cao. Nó tạo thành một mạng lưới lan rộng của các bó sợi nhỏ và mỏng giống như sợi dây được xếp chặt chẽ trong lớp trung bì nhú, trong khi ở lớp trung bì dạng lưới, nó có khoảng cách hơn với các bó dày hơn.
Các nguyên bào sợi gắn với sợi collagen thông qua liên kết chặt chẽ với mạng lưới collagen và kéo căng nó. Cấu trúc liên kết được tổ chức tốt này có các đặc tính đặc biệt về độ đàn hồi và độ căng đặc trung của da.
Trong quá trình lão hóa da theo thời gian, hàm lượng collagen trong lớp bì giảm đi, bó trở nên mỏng hơn và lưới collagen có xu hướng biến mất. Do đó tương tác giữa nguyên bào sợi và collagen bị giảm dẫn đến nguyên bào sợi bị xẹp một cách ngẫu nhiên. Những thay đổi này trong lớp biểu bì của da khiến da bị nhăn và chảy xệ.
Vì vậy, mục tiêu chính của việc trẻ hóa da là kích thích để các Collagen và Elastin tăng sinh trở lại số lượng khi da còn trẻ.
Tương tác da – trẻ hóa da
Các tương tác laser với mô phụ thuộc vào các đặc tính quang-nhiệt của mô kết hợp với các đặc tính của nguồn laser và chúng có thể được nhóm lại như sau: tương tác quang hóa, tương tác quang nhiệt (hóa hơi và đông máu), plasma, quang bóc tách và quang phá hủy.
Mật độ năng lượng thay đổi theo 15 bậc cường độ, từ xấp xỉ 1 mJ / mm2 đến 1 J / mm2 và một tham số duy nhất phân biệt và chủ yếu kiểm soát các quá trình này là thời gian tiếp xúc với tia laser, chủ yếu là đồng nhất với chính thời gian tương tác.
Cột thời gian có thể được chia thành 5 phần: thời gian chiếu > 1 s đối với tương tác quang hóa, 1 giây đến1 μs đối với tương tác nhiệt, 1 μs đến 1 ns đối với quang bóc tách và <1 ns là plasma và quang phá hủy.
Sự khác biệt giữa các loại tương tác là do mật độ năng lượng khác nhau, bên cạnh thực tế là một bên hoàn toàn dựa trên sự ion hóa trong khi bên kia chủ yếu là hiệu ứng cơ học. Ví dụ, hiệu ứng nhiệt cũng có thể đóng một vai trò quan trọng khi áp dụng xung laser siêu ngắn (<100 ps) ở tốc độ lặp lại cao (10-20 Hz), làm tăng nhiệt độ của mô được điều trị có thể đo được.
Trong tương tác quang nhiệt, các photon bị hấp thụ được chuyển thành nhiệt. Sự gia tăng nhiệt độ cục bộ là yếu tố ảnh hưởng đáng kể nhất và ảnh hưởng của nhiệt độ nóng có thể được coi là biến tính và đông tụ (T> 60◦C), có thể dẫn đến hoại tử và hóa hơi (T> 100◦C), dẫn đến cắt mô và cacbon hóa.
Nhiệt tạo ra trong mục tiêu mô có thể được kiểm soát trong mục tiêu đó bằng cách lựa chọn thời lượng xung thích hợp. Điều này liên quan đến thời gian bán phân rã nhiệt của mục tiêu TRT (thermal relaxation time), được định nghĩa là thời gian làm mát nội tại để mục tiêu tiêu tán một nửa nhiệt năng tới. Nếu thời gian xung laser bằng hoặc nhỏ hơn thời gian bán phân rã nhiệt của mục tiêu TRT, thì sự khuếch tán nhiệt đến mô lân cận sẽ bị giảm.
Thời gian bán phân rã nhiệt TRT chủ yếu liên quan đến kích thước vật lý của mục tiêu: mục tiêu càng lớn thì thời gian TRT càng lâu, như có thể xem trong Bảng sau:
Xem tiếp phần tiếp theo : https://theaic.vn/phuong-phap-tre-hoa-da-bang-laser/